Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

Mục tiêu hiểm yếu trong võ thuật


Mục tiêu hiểm yếu trong võ thuật (phần 1)





















Bản chất của võ thuật là chiến đấu để sống còn. Trong đấu tranh có thể
một mất một còn đó, phương thức vô hiệu hóa đối phương càng nhanh càng
tốt. Các nhà dân tộc học nghiên cứu võ thuật của con người thời xưa đã
nhận định: môn giải phẫu cơ thể học phát triễn rất sớm trong các võ
phái. Phái Không Động dùng đầu lâu dạy và thực tập những bộ vị hiểm yếu
của cơ thể con người. Ở Tây Tạng, các vị Lạt Ma rèn luyện võ thuật phải
kinh qua thời gian thực tập giải phẫu tử thi (sau đó đem điểu táng trên
đồi tha ma làm mồi cho kên kên theo tập tục) để nắm bắt các bộ vị và
huyệt vị. Cho nên các bộ vị và huyệt vị hiểm yếu cũng là đối tượng
nghiên cứu võ thuật. Đánh trúng các chỗ hiểm yếu của đối phương là cách
kết thúc cuộc chiến nhanh và hữu hiệu không tốn nhiều công sức! Các bậc
võ công thượng thừa nghiên cứu các bộ vị và huyệt vị hiểm yếu với tâm
bồ tát tránh ngộ sát. Còn chúng ta ngày nay học tập các bộ vị hiểm yếu
để ngăn ngừa kẻ hiếu sát manh động, đánh trúng chúng ta.










 BỘ VỊ HIỂM YẾU VỚI VÕ THUẬT



1. MẮT: để nhìn thấy, một giác quan
yếu ớt không chịu đựng nổi sự va chạm dù nhỏ bé như hạt bụi, hay vật
thể kích thích như hành, ớt, khói … Khi bị thương tổn mắt khép mi, nước
mắt ràn rụa, thị lực kém đi hoặc mất hẳn, làm cho sức chiến đấu rối
loạn. Có thể làm mờ mắt đối phương bằng hoa quyền, tung vật thể kích
thích, làm thương tổn mắt bằng chỉ pháp vẩy, ấn, chọc, móc.




2. MŨI: để ngửi, mùi của vật thể
kích thích làm cho chảy nước mắt, thị lực kém làm ảnh hưởng sức chiến
đấu. Sóng mũi bị đau đớn khi bị đánh trúng nhẹ, nếu bị áp lực mạnh gãy
xương mũi, bị thọc vào lỗ mũi gây chấn thương não.




3. TAI: để nghe và có chức năng cân
bằng cơ thể. Nếu bị đánh mạnh, vỗ chưởng hai tai bị tét màng nhĩ, gây
đau đớn, mất thính lực và thân thể không giữ thăng bằng nữa.




4. HẬU NÃO: nằm sau đầu do xương
đỉnh và xương chẩm (os parietale, os occipitale) cấu thành. Nếu hậu não
bị va chạm nhẹ, người hôn mê, còn nặng thì tử vong. Người ta dùng cương
tiên (xương cẳng tay), quyền đứng đập như chày giã gạo tấn công hậu
não.




5. CỔ: phía trướccó cổ họng, khí
quản, chung quanh hai bên ràng rịt các dây thần kinh, động mạch và tĩnh
mạch. Nếu cổ bị sức ép ngạt thở, máu huyết tắc nghẽn không lên nuôi não
bộ, người hôn mê, nặng sẽ tử vong. Phía sau cổ là xương đốt sống cổ
chứa tủy gai, nếu bị va chạm mạnh, hô hấp và tiêu hóa xáo trộn rất nguy
hại đến tính mạng. Người ta có hể chặt cổ bằng cạnh chưởng, siết cổ
bằng cương tiên và lắc cho trật khớp đốt sống cổ.




6. XƯƠNG ĐÒN DÀI: dẹt và cong chữ S
nằm ngang phía trước và trên của ngực. Đầu xương phía ngoài khớp nối
với mỏm cùng vai, đầu xương phía trong nối với xương ức. Khi bị chấn
thương, xương đòn vì ít chuyển động được như xương vai, nên rất dễ gãy.
Người ta đấm hay chặt gãy xương đòn làm cho hai chi trên mất khả năng
vận động chiến đấu.




7. TIM: nằm giữa lồng ngực, trên cơ
hoành và sau xương ức, giữa hai phổi, hơi lệch sang bên trái. Khi đánh
trúng tim bị chấn thương thần kinh thực vật chi phối tim và phổi co rút
làm cho người đau đớn, ngẹt thở, ngất xỉu có thể tử vong.




8. NÁCH: là tất cả phần mềm nằm ở
khoảng giới hạn bởi xương cánh tay, khớp vai, vùng ngực ở trước và
trong, vùng vai ở sau. Tất cả tạo nên một khoang gọi là hố nách, bên
trong có bó mạch thần kinh từ cổ xuống. Khi bị tấn công thọt vào hố
nách, người bị tê liệt có thể gây tử vong.




9. HÔNG: hợp thành hai bên lồng ngực
và bụng, gồm 12 đôi là những xương sườn dài, dẹt, cong ở hai bên lồng
ngực. Bảy đôi trên nối với xương ức trực tiếp gọi là xương sườn thật.
Năm đôi cuối có ba đôi nối với xương ức bằng sụn sườn thứ bảy, còn lại
hai đôi cuối lơ lửng. Năm đôi này gọi là xương sườn giả, yếu ớt, dễ bị
gãy nếu va chạm mạnh. Người ta gõ cho gãy xương sườn hoặc chọc các
khoảng gian sườn (giữa hai xương sườn) có các mạch và dây thần kinh gây
đau đớn làm thương tổn gan, là lách.




10. EO: ở dưới ngực gồm các đốt cột
sống làm trục để xoay chuyển thân trên, nhờ các cơ bám các đốt sống như
cơ dựng cột sống để duỗi và nghiêng cột sống; cơ ngang vai để xoay cột
sống; và cơ gian khai để dãn cột sống. Nếu vùng này bị tấn công chạm
mạnh làm tổn thương, các cơ và thận, thậm chí có thể trật khớp các đốt
cột sống hiểm nguy đến tính mạng.




11. BỤNG: là khoang chứa lục phủ ngũ
tạng: dạ dày, lá lách, tá tràng và tụy, gan, ruột non, ruột già, thận,
bàng quang … Phần này bị tấn công va chạm mạnh gây tổn thương các cơ
quan dập nát làm đau đớn chết người.




12. HẠ ÂM: gồm bộ phận sinh dục, bị tấn công va chạm làm đau đớn và có thể tử vong.



13. GỐI: được bảo vệ bằng xương bánh
chè hình tam giác hơi tròn, rất quan trọng cho động tác duỗi gối. Khi
chân đứng thẳng, gối bị tấn công trúng nhẹ thì người té, trúng mạnh thì
trật khớp hay gãy làm chân không duỗi được, người không thể đứng.




14. CẲNG CHÂN: gồm xương chày và
xương mác tiếp khớp với xương đùi là nơi chịu phần lớn sức nặng từ đùi
dồn xuống cẳng chân. Người ta đốn cẳng cho đối phương mất thăng bằng
thân thể ngã đổ. Xương chày có mặt trong bờ và bờ trước nằm ngay dưới
mặt da nên dễ tổn thương, nhẹ thì đau đớn, mạnh thì gãy, xương rất lâu
lành.




15. MẮT CÁ VÀ GÓT: đầu dưới xương
chày tạo thành mắt cá trong; và đầu dưới xương mác tạo thành mắt cá
ngoài. Hai khớp mắt cá trong và ngoài của xương chày và xương mác tạo
thành gọng kềm giữ các xương cổ chân ở gót. Cho nên khi mắt cá bị đá
trật khớp không giữ được bàn chân, người bị đổ và gây đau đớn vô cùng.


Mục tiêu hiểm yếu trong võ thuật (phần
cuối)





















Huyệt vị hiểm yếu với võ thuật






Vị trí của các huyệt đạo ứng dụng trong võ thuật đã được xác định từ
ngàn xưa, cùng với lịch sử võ học và những tác dụng của chúng, ta đã
ứng nghiệm qua thực tiễn chiến đấu. Gần đây, Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ A.M.A
(American Medical Association) hằng năm đăng tải trong niêm giám của
hội (Annals) những công trình nghiên cứu của các nhà sinh học công nhận
sự xác thực đúng đắn của các huyệt vị ứng dụng trong võ thuật.

















 1. THÁI DƯƠNG: thuộc vùng mặt ở lõm
phía ngoài đuôi mắt một thốn, có thần kinh vận động cơ và thần kinh sọ
não đi qua. Bị chấn thương nhẹ, người xây xẩm, nếu mạnh có thể tử vong.




2. BÁCH HỘI: ở đỉnh đầu, chỗ lõm
giao điểm của đường nối hai đỉnh vành tai và đường dọc qua giữa đầu, có
thần kinh thông qua. Bị va chạm hay bị áp lực mạnh, người ngất xỉu.




3. NGHINH HƯƠNG: thuộc vùng mặt, ở
phía ngoài chân cánh mũi 1/3 thốn trên đường ngang cánh mũi, có thần
kinh vận động cơ, nhánh của dây thần kinh sọ não thông qua. Chỉ cần bị
va nhẹ cũng làm cho người đau đớn.




4. PHONG TRÌ: thuộc vùng gáy, lõm
phía sau gáy tạo thành do bờ ngoài cơ thang, bờ trong cơ ức đòn chũm
bám vào đáy hộp sọ, có nùi dây thần kinh cổ, thần kinh chẩm lớn và thần
kinh dưới chẩm thông qua. Bị va chạm, người đau đớn, dễ ngất xỉu.




5. NHĨ MÔN: thuộc vùng tai, ở lõm trên dưới nắp tai, có dây thần kinh mặt và dây thần kinh sọ não đi qua. Bị chấn thương, người hôn mê.




6. GIÁP XA: thuộc vùng mặt, ở góc
xương hàm dưới, chỗ cơ nổi lên khi cắn răng, có nùi dây thần kinh sọ
não thông qua. Bị va chạm, người đau đớn tột cùng.




7. HỢP CỐC: ở vùng bàn tay, khi khép
ngón cái vào ngón trỏ, huyệt nằm chỗ đỉnh mô cơ vùng hổ khẩu, thần kinh
vận động cơ, nhánh của dây thần kinh trụ và dây thần kinh quay. Bị bấm
trúng, người đau đớn.




8. KIÊN TRUNG: thuộc vùng vai, khi
giơ ngang cánh tay ra, huyệt ở chỗ trũng của mỏm vai, có chi nhánh thần
kinh mũ. Bị chấn thương, tay tê liệt.




9. THIẾU HẢI: thuộc vùng khuỷu, ở
đầu trong lằn ngang khuỷu, có nhánh dây thần kinh cánh tay và dây thần
kinh trụ thông qua. Bị va chạm, cánh tay đau đớn và tê.




10. TIỂU HẢI: thuộc vùng khuỷu, gấp
khuỷu tay, huyệt ở ngay rãnh trụ, có nhánh của dây thần kinh trụ và dây
thần kinh quay đi qua. Bị chạm, cánh tay đau đớn và tê.




11. KHÚC TRÌ: thuộc vùng khuỷu, khi
gấp tay, huyệt ở đầu phía ngoài nếp gấp một thốn, có nhánh của dây thần
kinh quay đi qua. Bị chấn thương, cánh tay tê liệt.




12. TÚC TAM LÝ: thuộc vùng cẳng
chân, từ bờ dưới xương bánh chè đo xuống ba thốn, và cách mào xương
chày một thốn, huyệt ở chỗ trũng hai gân, có nùi dây thần kinh hông,
dây thần kinh chày đi trước đi qua. Bị va chạm, người đau đớn.




13. HUYẾT HẢI: thuộc vùng đùi, từ
góc trong xương bánh chè đo lên hai thốn, có nùi dây thần kinh đùi
thông qua. Bị va chạm, chân đau đớn tê liệt.




14. BỘC THAM: thuộc vùng bàn chân,
lõm ở bờ trên mặt ngoài xương gót chân, huyệt ở sát bờ trên xương gót
và thẳng huyệt Côn Lôn (chỗ lõm phía sau mắt cá ngoài) xuống, có nùi
dây thần kinh cơ da và dây thần kinh chày sau. Bị va chạm, nguyên bàn
chân đau đớn.




15. ƯNG SONG: thuộc vùng ngực, ở
giữa chỗ lõm, cách đường giữa ngực ba thốn, có nùi dây thần kinh ngực
to, ngực bé, thần kinh nách, thần kinh gian sườn thông qua. Bị chấn
thương, người choáng váng.




16. THIÊN KHU: thuộc vùng quanh rốn,
từ rốn đo ngang ra hai thốn, có nùi dây thần kinh gian sườn dưới, thần
kinh bụng – sinh dục. Bị chạm mạnh, nội tạng tổn thương dễ nguy hiểm
tính mạng.




17. KINH MÔN: thuộc vùng eo lưng,
dưới đầu xương sường số 12, có sáu dây thần kinh gian sườn dưới và dây
thần kinh bụng – sinh dục thông qua. Bị chạm, người đau đớn vô cùng.




Các vùng huyệt đạo bị tấn công có thể bằng ngón thọc,
mổ - lóng co lại gõ – chưởng, vỗ, chém – cùi chỏ đánh – đầu hay vai húc
– chân đá, đạp (nhằm vào các huyệt vị thuộc chi dưới).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét